(Last Updated On: 30/03/2022 By Lytuong.net)
Lực lượng sản xuất là một khái niệm trung tâm của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Việc nghiên cứu rõ nội hàm của khái niệm này là cơ sở để hiểu toàn bộ sự vận động và phát triển của quá trình sản xuất vật chất trong lịch sử xã hội loài người. Vì vậy, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác đã sớm nghiên cứu về khái niệm lực lượng sản xuất. Trong các tác phẩm của mình, mặc dù C.Mác không trực tiếp đưa ra khái niệm lực lượng sản xuất nhưng nội hàm của khái niệm này đã được ông đề cập đến ngay từ những tác phẩm đầu tay.
Năm 1845, khi viết tác phẩm “Về cuốn sách của Phiđrích Lixtơ “Học thuyết dân tộc về kinh tế chính trị học””, C.Mác đã phê phán quan điểm duy tâm của Lixtơ về lực lượng sản xuất khi Lixtơ cho rằng lực lượng sản xuất mang “bản chất tinh thần”, nó là cái vô hạn. Theo C.Mác, lực lượng sản xuất không phải là cái “bản chất tinh thần” nào đó mà là những cái có sức mạnh vật chất. C.Mác viết: “Để xua tan vầng hào quang thần bí có tác dụng cải biến “sức sản xuất”, chỉ cần mở ra bản tổng quan thống kê đầu tiên ta gặp là đủ. Ở đó có nói về sức nước, sức hơi nước, sức người, sức ngựa. Tất cả những thứ ấy đều là lực lượng sản xuất“.
Lực lượng sản xuất là gì?
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổỉ các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.
Về cấu trúc, lực lượng sản xuất được xem xét trên cả hai mặt, đó là mặt kinh tế – kỹ thuật (tư liệu sản xuất) và mặt kinh tế – xã hội (người lao động). Lực lượng sản xuất chính là sự kết hợp giữa “lao động sống” với “lao động vật hóa” tạo ra sức sản xuất, là toàn bộ những năng lực thực tiễn dùng trong sản xuất của xã hội ở các thời kỳ nhất định.
Như vậy, lực lượng sản xuất là một hệ thống gồm các yếu tố (người lao động và tư liệu sản xuất) cùng mối quan hệ (phương thức kết hợp), tạo ra thuộc tính đặc biệt (sức sản xuất) để cải biến giới tự nhiên, sáng tạo ra của cải vật chất theo mục đích của con người. Đây là sự thể hiện năng lực thực tiễn cơ bản nhất – năng lực hoạt động sản xuất vật chất của con người.

1/ Người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và năng lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. Người lao động là chủ thể sáng tạo, đồng thời là chủ thể tiêu dùng mọi của cải vật chất xã hội. Đây là nguồn lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản xuất. Ngày nay, trong nền sản xuất xã hội, tỷ trọng lao động cơ bắp đang có xu thế giảm, trong đó lao động có trí tuệ và lao động trí tuệ ngày càng tăng lên.
2/ Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động.
– Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động con người dùng tư liệu lao động tác động lên, nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng của con người.
– Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào đó để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người. Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và phương tiện lao động.
+ Phương tiện lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất, cùng với công cụ lao động mà con người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động trong quá trình sản xuất vật chất.
+ Công cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng nhằm tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu câu con người và xã hội.
Công cụ lao động là yếu tố vật chất “trung gian”, “truyền dẫn” giữa người lao động và đối tượng lao động trong tiến hành sản xuất. Đây chính là “khí quan” của bộ óc, là tri thức được vật thể hóa do con người sáng tạo ra và được con người sử dụng làm phương tiện vật chất của quá trình sản xuất. Công cụ lao động giữ vai trò quyết định đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
Ngày nay, trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang phát triển, công cụ lao động được tin học hoá, tự động hoá và trí tuệ hoá càng có vai trò đặc biệt quan trọng. Công cụ lao động là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất, là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi kinh tế xã hội trong lịch sử; là thước đo trình độ tác động, cải biến tự nhiên của con người và tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau. Chính vì vậy, C.Mác khẳng định: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”[1].
Đặc trưng chủ yếu của lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa người lao động và công cụ lao động.
– Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố hàng đầu giữ vai trò quyết định. Sở dĩ như vậy là vì người lao động là chủ thể sáng tạo và sử dụng công cụ lao động. Suy đến cùng, các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ thuộc vào trình độ sử dụng của người lao động. Hơn nữa, trong quá trình sản xuất, nếu như công cụ lao động bị hao phí và di chuyển dần giá trị vào sản phẩm., thì người lao động do bản chất sáng tạo của mình, trong quá trình lao động họ không chỉ sáng tạo ra giá trị đủ bù đắp hao phí lao động, mà còn sáng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bỏ ra ban đầu. Người lao động là nguồn gốc của mọi sáng tạo trong sản xuất vật chất, nguồn gốc của sự phát triển sản xuất.
– Cùng với người lao động, công cụ lao động là yếu tố cơ bản, quan trọng không thể thiếu được, đặc biệt, trình độ phát triển của công cụ lao động là một nhân tố quyết định năng suất lao động xã hội.
– Lực lượng sản xuất là kết quả năng lực thực tiễn của con người, nhưng bản thân năng lực thực tiễn này bị quy định bởi những điều kiện khách quan mà trong đó con người sống và hoạt động. Vì vậy, lực lượng sản xuất luôn có tính khách quan. Tuy nhiên, quá trình phát triển lực lượng sản xuất là kết quả của sự thống nhất biện chứng giữa khách quan và chủ quan.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất là phát triển ở cả tính chất và trình độ.
– Tính chất của lực lượng sản xuất nói lên tính chất cá nhân hoặc tính chất xã hội hoá trong việc sử dụng tư liệu sản xuất.
– Trình độ của lực lượng sản xuất là sự phát triển của người lao động và công cụ lao động. Trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện ở trình độ của công cụ lao động; trình độ tổ chức lao động xã hội; trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất; trình độ, kinh nghiệm kỹ năng của người lao động và đặc biệt là trình độ phân công lao động xã hội.
– Trong thực tế, tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sân xuất là không tách rời nhau.
Nghiên cúu sự phát triển của lực lượng sản xuất trong lịch sử, Các Mác khẳng định: “Tri thức xã hội phổ biến [Wissen, knowledge] đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp”[2]. Ngày nay, trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Khoa học sản xuất ra của cải đặc biệt, hàng hoá đặc biệt. Đó là những phát minh sáng chế, những bí mật công nghệ, trở thành nguyên nhân của mọi biến đổi trong lực lượng sản xuất. Hiện nay, khoảng cách từ phát minh, sáng chế đến ứng dụng vào sản xuất đã được rút ngắn làm cho năng suất lao động, của cải xã hội tăng nhanh. Khoa học kịp thời giải quyết những mâu thuẫn, những yêu cầu do sản xuất đặt ra; có khả năng phát triển “vượt trước” và thâm nhập vào tất cả các yếu tố của sản xuất, trở thành mắt khâu bên trong của quá trình sản xuất. Tri thức khoa học được kết tinh, “vật hoá” vào người lao động, người quản lý, công cụ lao động và đối tượng lao động. Sự phát triển của khoa học đã kích thích sự phát triển năng lực làm chủ sản xuất của con người.
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang phát triển, cả người lao động và công cụ lao động được trí tuệ hoá, nền kinh tế của nhiều quốc gia phát triển đang trở thành nền kinh tế tri thức. Đó là nền kinh tế mà trong đó sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức của con người đóng vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, từ đó tạo ra của cải vật chất và nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Đặc trưng của kinh tế tri thức là công nghệ cao, công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất và trong đờỉ sống xã hội. Lực lượng sản xuất phát triển trong mối quan hệ biện chứng với quan hệ sản xuất.
[1] C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, t.23, sdd, tr.269
[2] C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, t.46,phần II, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr.269
Xem thêm: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sản xuất xã hội cũng như quá trình phát triển của lịch sự loài người. Vậy lực lượng sản xuất là gì?
- Lực lượng sản xuất là gì?Vai trò của lực lượng sản xuất?Yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuấtLực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở Việt Nam
Danh mục bài viết
Lực lượng sản xuất là gì?
Theo quan điểm của Các Mác thì lực lượng sản xuất là khái niệm để chỉ sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất nhằm tạo ra sức sản xuất vật chất nhất định.
Có thể hiểu, sự kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu của con người và xã hội trong các thời kỳ nhất định.
Về cấu trúc, lực lượng sản xuất là một hệ thống được xem xét trên hai mặt:
Thứ nhất là Kinh tế – kỹ thuật còn được hiểu là tư liệu sản xuất
Thứ hai là về kinh tế – xã hội, được hiểu là người lao động
Cũng theo Các Mác để cải biến giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất, người lao động cần phải có một sức mạnh tổng hợp. Đó là sự kết hợp giữa sức mạnh của thể chất và trí tuệ – những yếu tố tạo nên khả năng lao động của con người và những yếu tố khác có thuộc tính cơ học, lý học, hóa học của các vật, để tùy theo mục đích của mình, dùng những yếu tố đó làm công cụ tác động vào các vật khác để quá trình sản xuất vật chất có thể thể diễn ra.
Có thể hiểu tư liệu sản xuất là điều kiện cần của quá trình sản xuất vật chất và người lao động chính là chủ thể, đóng vai trò quyết định sự phát triển của sản xuất.
Như vậy, nếu không có con người biết chế tạo, sử dụng công cụ lao động, tác động vào giới tự nhiên thì sẽ không có quá trình sản xuất vật chất.

Vai trò của lực lượng sản xuất?
Trong bất kỳ xã hội nào để tạo ra của cải, vật chất cho xã hội phải có người lao động lẫn tư liệu sản xuất. Vì nếu không có công cụ lao động phục vụ cho quá trình lao động thì con người sẽ không thể tác động để tạo ra của cải vật chất.
Do đó, lực lượng sản xuất có vai trò là phương tiện để tiến hành sản xuất vật chất cho xã hội. Để thỏa mãn được nhu cầu cơ bản của mình, con người phải chế tạo ra công cụ lao động, chính xác hơn đó là tư liệu lao động, tư liệu sản xuất, lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất phát triển quyết định sự biến đổi, sự phát triển về mọi mặt của đời sống, quyết định sự phát triển của xã hội từ thấp đến cao.
Lực lượng sản xuất còn là một bộ phận cấu thành của phương thức sản xuất và là nền tảng, cơ sở, tiền đề của sản xuất. Bởi nếu không có công cụ lao động, con người không thể sản xuất tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu của mình.
Lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến sự phân công lao động xã hội, năng xuất lao động xã hội từ đó cũng tăng lên, kết quả là sản phẩm sản xuất có sự dư thừa. Sự dư thừa sản phẩm là một trong các nguyên nhân dẫn tới sự ra đời của chế độ tư hữu và xuất hiện giai cấp trong xã hội. Có thể thấy, sự phát triển của lực lượng sản xuất chính là nguyên nhân sâu xa của sự xuất hiện giai cấp trong xã hội.
Lực lượng sản xuất có một vai trò đặc biệt quan trọng đối với sản xuất xã hội cũng như quá trình phát triển của lịch sự loài người. Phát triển lực lượng sản xuất là vấn đề được coi trọng và đề cao trong mọi thời kỳ phát triển của xã hội.
Yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất
Trong quá trình sản xuất, công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất để tư liệu lao động được hoàn thiện nhằm đạt được năng suất lao động cao.
Trong tư liệu lao động, là các yếu tố vật chất con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động thì công cụ lao động là một yếu tố quan trọng nhất. Và khi công cụ lao động đạt đến trình độ tự động hoá thì vai trò của nó lại càng quan trọng.
Trình độ phát triển công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Nói đúng hơn thì yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất chính là con người.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất chỉ tổng thể mối quan hệ kinh tế, là quan hệ giữa người với người về mặt thực hiện lợi ích vật chất trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội.
Quan hệ sản xuất bao gồm:
– Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất
– Quan hệ trong tổ chức – quản lý quá trình sản xuất
– Quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất
Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và chi phối, tác động lẫn nhau trên cơ sở quyết định của quan hệ sở hữu vể tư liệu sản xuất.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất biện chứng, có sự phụ thuộc, ràng buộc, tác động lẫn nhau tạo thành quá trình sản xuất của xã hội.
Trong quá trình sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu; lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất; quan hệ sản xuất là hình thức kinh tế của quá trình đó.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất với nhau. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá trình sản xuất hiện thực của xã hội.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ biện chứng, trong đó vai trò quyết định thuộc về lực lương sản xuất, còn quan hệ sản xuất giữ vai trò tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ thống nhất tuân theo nguyên tắc khách quan: quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định vì quan hệ sản xuất chỉ là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất còn lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở Việt Nam
Thời kỳ trước đổi mới
Lực lượng sản xuất còn thấp và chưa có nhiều điều kiện để phát triển. Lao động chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và dựa trên kinh nghiệm ông cha để lại. Tư liệu sản xuất, công cụ lao động còn thô sơ, lạc hậu.
Đảng và Nhà nước đã chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất . Sau giải phóng miền Bắc, bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhấn mạnh vai trò của quan hệ sản xuất, dẫn đến chủ trương quan hệ sản xuất phải đi trước mở đường, tạo động lực cho sự phát triển lực lượng sản xuất.
Thời kỳ sau đổi mới
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã thừa nhận khuyết điểm, chủ trương đổi mới phương thức quản lý kinh tế. Đây là mốc quan trọng trong quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thể hiện qua nhận thức và vận dụng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, biện pháp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời ban hành nhiều chính sách và pháp luật để hoàn thiện các mặt của quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên đây là thông tin giải đáp cho lực lượng sản xuất là gì? Nếu còn thắc mắc, vui lòng liên hệ

19006199 để được hỗ trợ.
Bài viết được chia sẻ bởi caigiday.com